Khái niệm Trúc Chỉ là gì?
Nếu như Washi (Hòa chỉ) là từ để chỉ giấy thủ công của người Nhật, Hanji (Hàn chỉ) là từ để chỉ giấy thủ công của người Hàn quốc (không chỉ cụ thể một loại nguyên liệu nào), thì Trúc Chỉ là danh từ để định danh một loại hình giấy- nghệ- thuật, nghệ- thuật- giấy mới của Việt nam.
Với ý nghĩa hình tượng cây tre/trúc là biểu tượng văn hóa và tinh thần Việt (cũng là một trong những loại nguyên liệu được sử dụng cùng với: rơm, tre, mía, chuối, dâu, dứa, lá, cỏ…), được Nhà văn, Dịch giả Bửu Ý định danh vào tháng 4 năm 2012, và được Họa sỹ Phan Hải Bằng, Giảng viên Đại học Nghệ thuật- Đại học Huế cùng các cộng sự nghiên cứu và sáng tạo nên.
Nghệ thuật Trúc Chỉ khởi phát từ ý niệm: mang đến cho khái niệm “giấy” một khả năng mới: thoát khỏi thân phận làm nền cho các thao tác sáng tạo khác, để trở thành một tác phẩm nghệ thuật tự thân, độc lập.
Đây chính là tinh thần cốt lõi của Nghệ thuật Trúc Chỉ Việt Nam.
Với ý niệm mang lại tính nghệ thuật cho giấy thủ công, các phép ứng biến, tiếp biến về nguyên liệu, quy trình, thuật ngữ kỹ thuật tương ứng…đã được nghiên cứu, vận dụng để làm cho “Giấy” trở nên “Nghệ thuật Trúc Chỉ”. Một trong những thành tựu quan trọng là thuật ngữ kỹ thuật Đồ họa Trúc chỉ/ trucchigraphy đã được sáng tạo bởi đội ngũ Trúc chỉ.
Đồ họa Trúc Chỉ/ trucchigraphy là gì?
Đồ họa Trúc Chỉ/ trucchigraphy là sự kết hợp, ứng biến trên 3 yếu tố:
– Quy trình nghề giấy thủ công truyền thống
– Nguyên lý của các kỹ thuật chất liệu của Nghệ thuật Đồ họa (Silkscreen, etching…)
– Kỹ thuật dùng áp lực nước cơ bản (được sử dụng ở các nước quanh khu vực).
Thuật ngữ này đã được HS Phan Hải Bằng và cộng sự nghiên cứu, tiếp biến và sáng tạo trong quá trình làm việc, nghiên cứu, thể nghiệm… đến nay đã trở thành một thuật ngữ đồ họa mới của Nghệ thuật đồ họa Việt nam, đã được thừa nhận và sử dụng trong giới chuyên môn. Đây chính là điều làm nên sự khác biệt, đặc trưng của Trúc Chỉ, tạo nên hệ thống lớp lang, sắc độ, sắc nhị tinh tế cho tác phẩm đồ- họa-giấy mà trước nay chỉ mới có được ở Trúc Chỉ.
Nếu nguyên lí của việc in khắc kim loại là sử dụng hóa chất để bóc đi từng lớp kim loại, tạo ra hệ thống sắc độ khi in ra, thì đồ họa Trúc Chỉ sử dụng áp lực nước để bóc đi từng lớp lớp bột giấy một để tạo nên các độ dày mỏng, tương ứng với hệ thống sắc độ cho tác phẩm Trúc chỉ khi tương tác với ánh sáng.
Nếu như tranh in khắc kim loại chỉ cho 1 hiệu ứng duy nhất là hiệu ứng bề mặt với sắc độ tương ứng với độ ăn mòn nông, sâu trên mặt kim loại, với Trúc Chỉ lại có khả năng mang đến 2 hiệu ứng trên cũng một tác phẩm một cách linh hoạt: –hiệu ứng bề mặt: ánh sáng thuân, dương bản: dày thì sáng, đậm thì tối –hiệu ứng xuyên sáng: ánh sáng ngược, âm bản: dày thì tối, mỏng thì sáng.
Đây chính là một trong những đặc điểm thu hút và gợi cảm hứng cho nghệ sỹ và người thưởng ngoạn của Nghệ thuật Trúc chỉ.
Nghệ thuật Trúc Chỉ hiện đang được vận hành cả hai hướng: nghệ thuật thị giác, và nghệ thuật ứng dụng với nhiều thành tựu triển lãm, giải thưởng trong và ngoài nước.
Trúc chỉ – Nghệ thuật giấy của người Việt
Trúc chỉ được sáng tạo với ý niệm cốt lõi “Mang lại cho “giấy” có thêm khả năng thoát khỏi thân phận làm “nền” để trở thành một tác phẩm độc lập”.
Với Trúc chỉ, bản thân giấy cũng là một tác phẩm nghệ thuật, nghề làm giấy cũng là một nghệ thuật.
Một trong những đóng góp đáng kể của Trúc chỉ là sáng tạo nên thuật ngữ kỹ thuật “đồ họa Trúc chỉ” (trucchigraphy).
Từ năm 2012, trong dòng chảy mỹ thuật Việt xuất hiện một loại hình nghệ – thuật – giấy, giấy – nghệ – thuật mới; được nhà văn, dịch giả Bửu Ý định danh là “Trúc chỉ”. Theo ông Bửu Ý, với hình ảnh tre, trúc là biểu tượng văn hóa và tinh thần Việt; Trúc chỉ chính là tên gọi một loại hình giấy – nghệ – thuật mới của người Việt (chứ không phải chỉ là giấy tre/ bamboo paper). Trúc chỉ khai thác hầu hết các nguyên liệu xơ sợi sẵn có từ rơm, tre, mía, chuối, bèo, bắp, dứa, dâu, lá, cỏ…
Dự án Nghệ thuật Trúc chỉ Việt Nam là thành quả của quá trình nghiên cứu độc lập của họa sĩ Phan Hải Bằng từ năm 2000; học bổng Châu Á học (ASF) 2007-2008; đề tài “Nghiên cứu chế tác giấy từ các nguyên liệu địa phương, ứng dụng vào giảng dạy, học tập và sáng tạo nghệ thuật”; thực nghiệm cùng các cộng sự từ 2011. Thuật ngữ kỹ thuật “đồ họa Trúc chỉ” (trucchigraphy) được hình thành từ sự vận dụng các yếu tố: quy trình chế tác giấy thủ công truyền thống, kỹ thuật tạo áp lực nước (khá phổ biến ở một số nước), và các nguyên lý của nghệ thuật đồ họa
Quy trình chế tác Trúc chỉ gồm hai công đoạn chính. Một là quy trình làm giấy truyền thống. Nguyên liệu thô được ngâm, nấu với vôi, nghiền, giã thành bột giấy, rồi được “seo” thành tấm giấy trên khung “seo”. Tiếp theo là quy trình Trúc chỉ. Ngay trên tấm giấy ướt, họa sĩ sẽ sử dụng một vòi phun tạo áp lực nước để thay đổi cấu trúc xơ sợi, tạo nên độ dày mỏng khác nhau, với những hình ảnh đã được cắt trổ theo phác thảo. Thao tác này được tiến hành nhiều lần, theo nguyên lý của kỹ thuật chế bản in khắc kim loại (etching) và in xuyên (seriegraphy), tạo nên nhiều lớp sắc độ, sắc nhị tinh tế. Bên cạnh đó, họa sĩ còn có thể sử dụng vòi phun áp lực nước như một cây “bút vẽ” đặc biệt để vờn vẽ trực tiếp trên mặt tấm giấy ướt, tạo nên hiệu ứng đặc biệt. Việc vận dụng kỹ thuật tạo áp lực nước theo nguyên lý của nghệ thuật đồ họa, với ý niệm tạo tác một tác phẩm nghệ thuật giấy – tự – thân, chính là điểm cốt lõi làm nên sự khác biệt và biểu hiện độc đáo của Trúc chỉ.
Đặc tính của Trúc chỉ là sự phong phú, linh hoạt về biểu hiện của nhiều loại xơ sợi; của hệ thống sắc độ, sắc nhị… tinh tế theo thứ lớp dày mỏng mà trucchigraphy mang lại. Đặc biệt là khi tương tác với ánh sáng. Hiệu ứng bề mặt là khi có ánh sáng thuận, những chỗ dày sẽ cho sắc độ sáng, mỏng cho sắc độ tối. Với hiệu ứng xuyên sáng sẽ cho hiệu ứng ngược lại: những chỗ dày sẽ tối, những chỗ mỏng sẽ sáng. Sự linh hoạt này chính là điểm thu hút, gợi cảm hứng cho người xem, người sáng tạo, đồng thời cũng chính là khả năng đáp ứng và tham dự vào cuộc chơi nghệ thuật thị giác một cách chính thức, đàng hoàng. Trúc chỉ hoàn toàn có thể là một tác phẩm nghệ thuật tự thân mang đậm ngôn ngữ đồ họa; mặt khác, Trúc chỉ cũng sẵn sàng “đối thoại” với những tín hiệu tạo hình được đặt tiếp lên trên nó. Bên cạnh đó, Trúc chỉ cũng hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đa dạng và đăc biệt của nghệ thuật ứng dụng ở các loại hình như thiết kế sản phẩm, nội ngoại thất, trang phục, thời trang, trang sức… Đặc biệt là kết hợp với các làng nghề thủ công truyền thống để cho ra đời những nghệ phẩm độc đáo.
Cho đến nay, Trúc chỉ đã có một lý lịch nghệ thuật khá dày dặn, với các tác phẩm, công trình tiêu biểu như tác phẩm “Vọng niệm” thuộc Dự án Nghệ thuật đường hầm Nhà Quốc hội 2018, dự án Nghệ thuật Overseas (Bảo tàng Confluences Lyon, Pháp 2018), các triển lãm “Trúc chỉ – Lời của sông” 2016-2017 tại Hà Nội và Đà Nẵng, “Trúc chỉ – Điện Long An” tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế 2016; “Đồng vọng – Dấu ấn Mỹ thuật Chúa Nguyễn trên Trúc chỉ” tại Đại nội Huế 2015; đoạt nhiều giải thưởng mỹ thuật trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, Trúc chỉ còn được lựa chọn là quà tặng cho Nhật hoàng và phu nhân trong chuyến thăm Huế năm 2017.
Cùng việc tổ chức các workshop cho các nghệ sỹ, sinh viên, học sinh… Trúc chỉ được giới thiệu lan tỏa trong đời sống một cách trực tiếp thông qua hiệu ứng giáo dục. Được sinh ra từ văn hóa Huế, Trúc chỉ không chỉ còn là của riêng Huế. Khởi đi từ một chất liệu; Trúc chỉ đã không chỉ là một chất liệu cho nghệ thuật, mà tự nó đã là một loại hình nghệ thuật, góp thêm vào hệ thống ngôn ngữ tạo hình một tiếng nói mới, một biểu hiện mới. Không dừng lại ở đó, Trúc chỉ với thông điệp: “Trúc chỉ – một tiếp biến truyền thống trong bối cảnh đương đại” đã và đang trên hành trình mới, hành trình xây dựng một giá trị văn hóa mới với định hướng: “Thẩm mỹ – giáo dục – xã hội”, như một cách tri ân quê hương đã sản sinh và nuôi dưỡng mạch nguồn văn hóa và sáng tạo.
Trúc Chỉ – Phép cộng và sự trở về:
Dựa vào sự kết hợp của nhiều ý tưởng sáng tạo, nhiều kỹ thuật chế tác trên nền tảng truyền thống, Trúc Chỉ chính là sự giao thoa, hòa quyện và tiếp nối giữa quá khứ với hiện tại. Như họa sĩ Phan Hải Bằng đã chia sẻ: “Khi làm Trúc Chỉ với tiêu chí phép cộng, chúng tôi luôn ý thức cộng thêm vào và kết nối với những nghề thủ công truyền thống hiện đang có ở Huế. Để tạo nên một giá trị mới nhưng vẫn lưu giữ được những nét đẹp truyền thống của dân tộc”.
Với tâm thức về cội nguồn và cộng hưởng những điều mới lạ, họa sĩ Phan Hải Bằng cùng các cộng sự vẫn luôn nỗ lực trên con đường khẳng định chỗ đứng cho Trúc Chỉ qua các dự án mới hay các buổi triển lãm để nó được hiện diện không chỉ trong nghệ thuật mà còn trong cả đời sống của mỗi con người.